Thứ Ba, 7 tháng 10, 2008

GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU TRÁI CÂY ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

TS. Hồ Tiến Dũng
Trưởng khoa Quản trị kinh doanh - Đại học kinh tế TP.HCM

Là trung tâm kinh tế nông nghiệp lớn nhất nước, Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đứng đầu về sản xuất nông nghiệp, đặc biệt gạo, thủy sản và trái cây. Ngoài gạo và thủy sản là mặt hai mặt hàng sản xuất và xuất khẩu lớn nhất nước, bên cạnh đó trái cây ĐBSCL cũng chiếm một lượng lớn về sản xuất và xuất khẩu trong tổng sản lượng trái cây của cả nước, đặc biệt là dứa, sầu riêng, nhãn, xoài, cam xành, chuối, thanh long, vú sửa, bưởi…. Tuy nhiên sản lượng trái cây xuất khẩu ĐBSCL chỉ chiếm khoảng 10% - 15% tổng sản lượng sản xuất của cả vùng, trong khi đó nhu cầu trái cây của thế giới còn rất lớn, đây là tiềm năng, cơ hội cũng như thách thức đối với trái cây của ĐBSCL trong thời gian tới. Chính vì vậy, đã đến lúc phải quan tâm đến việc xuất khẩu trái cây ở vùng ĐBSCL, không thể mạnh ai nấy làm, nhà vườn không thể đứng riêng một mình tự sản xuất, tự bảo quản, tự chế biến, tự giải quyết được đầu ra cho sản phẩm trái cây của mình, mà phải liên kết và chỉ có thể giải quyết được khi có một tổ chức liên kết đồng bộ các khâu trong chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ để có thể đáp ứng được yêu cầu trái cây sạch, an toàn và chất lượng của thế giới.

Từ năm 2004 đến nay, kim ngạch xuất khẩu trái cây ĐBSCL có xu hướng tăng, ước tính đạt 169,6 triệu USD năm 2007, chiếm khoảng 50% giá trị xuất khẩu trái cây của cả nước, tuy nhiên giá trị xuất khẩu này còn rất khiêm tốn so với tiềm năng của vùng và còn thấp so với năm 2001.

Bảng 1: Giá trị kim ngạch xuất khẩu trái cây từ năm 2001-2007

Đơn vị Tính: triệu USD

Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Ước 2007
Tổng kim ngạch xuất khẩu trái cây 344,2 221,2 151,5 178,8 235 250,7 300
Kim ngạch xuất khẩu trái cây ĐBSCL 197 120,6 91,5 107 138 145,2 169,6

(Nguồn: tổng hợp từ VnEconomy, Vnnanet)

Tính đến cuối năm 2006, thị trường xuất khẩu của trái cây ĐBSCL lên đến 50 quốc gia. Thị trường xuất khẩu chủ yếu là Trung Quốc, Đài Loan, Nhật, Hàn Quốc, Hà Lan, Nga, Indonesia, Singapore, Lào, Hồng Kông, Pháp, Italia, Malaysia, Đức …

Bảng 2: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu trái cây ĐBSCL sang các thị trường chính (Tính bình quân từ 2001– 2007)

Thị trường Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu trái cây (%)
Trung Quốc 38,4
Đài Loan 10,8
Nhật 12,9
Hàn Quốc 6,5
Nga 4,3
Mỹ 7
Hà Lan 5,7
Một số nước khác 14,4

(Nguồn tổng hợp của Vinanet và thông tin thương mại)

Nhìn chung, giá cả xuất khẩu trái cây của ĐBSCL thường thấp hơn giá cả trái cây xuất khẩu cùng loại của các quốc gia khác, đặc biệt là Thái Lan. Nguyên nhân chính là do chất lượng sản phẩm của ĐBSCL không thể cạnh tranh được với sản phẩm của các quốc gia này.

Bảng 3: Giá xuất khẩu một số loại trái cây chủ yếu tháng 4 năm 2008

Loại trái cây Giá xuất khẩu bình quân của ĐBSCL ( USD/Kg) Giá xuất khẩu bình quân của Thái Lan( USD/Kg)
Dứa 1 1,21
Xoài 1,88 2,12
Cam xành 2,28 3,26
Bưởi 0,437 0,89

(Nguồn: Vinanet)

Hiện nay sản xuất và xuất khẩu trái cây ĐBSCL có những thuận lợi như: ĐBSCL là nơi có điều kiện thiên nhiên ưu đãi cho việc phát triển nghề trồng trọt; có đội ngũ lao động nông thôn dồi dào, cần cù, sáng tạo, chịu khó; nước ta đã hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực, có điều kiện để tranh thủ sự giúp đỡ và học tập kinh nghiệm từ các nước đi trước; Nhà nước có nhiều chính sách quan tâm đến lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu nông sản. Tuy nhiên, sản xuất và xuất khẩu trái cây ĐBSCL đang đối đầu với những thách thức như:

- Nền nông nghiệp ở ĐBSCL còn lạc hậu nên năng lực cạnh tranh chưa cao so với một số nước trong khu vực như : Thái Lan, Trung Quốc…

- Sản xuất trái cây ở ĐBSCL còn mang tính tự phát, với qui mô nhỏ, chưa có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tập trung một cách hợp lý. Chính vì vậy, các nhà kinh doanh xuất khẩu gặp khó khăn trong việc thu mua nguyên liệu, sản phẩm đầu vào, dẫn đến hoạt động kinh doanh kém hiệu quả.

- Chưa có vùng cây ăn trái chuyên canh với diện tích lớn đủ đảm bảo số lượng, chất lượng ổn định cho chế biến và xuất khẩu.

- Trình độ sản xuất, quản lý, kinh doanh của đa cố các doanh nghiệp và nhà vườn ĐBSCL còn bị hạn chế. Đặc biệt, những kiến thức về kinh tế thị trường, về quản lý kinh doanh còn rất yếu.

- Các doanh nghiệp, nhà vườn không thoát khỏi vòng lẩn quẩn: vốn ít dẫn đến không có năng lực đổi mới công nghệ dẫn đến giá thành cao, dẫn đến cạnh tranh kém.

- ĐBSCL chưa được sự hỗ trợ thật sự của các ngành công nghiệp hoá chất, phân bón, cơ khí, điện tử…. Phân bón, hoá chất thường xuyên tăng giá, làm cho chi phí sản xuất đầu vào tăng kéo theo giá thành sản xuất cũng tăng. Máy móc, thiết bị chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu sản xuất, sản phẩm có chất lượng và vệ sinh an toàn cao, công nghệ bảo quản sau thu hoạch còn lạc hậu.

- Thông tin thị trường rất hạn chế, do đó nhà vườn cũng như các doanh nghiệp thường gặp khó khăn trong khâu sản xuất và tiêu thụ. Do đó, các doanh nghiệp thường bị dẫn đến gặp thua lỗ trong kinh doanh.

- Mặc dù trong thời gian qua, Nhà nước có nhiều chính sách, cơ chế hỗ trợ cho ngành nông nghiệp như: xây dựng đường xá, giao đất sản xuất, hỗ trợ vốn, ưu đãi thuế, tăng cường hợp tác quốc tế …. Tuy nhiên, các chính sách này không được thực hiện một cách đồng bộ và mang lại hiệu quả cao như mong đợi. Vì vậy, chưa thật sự làm cho người dân yên tâm sản xuất và xuất khẩu.

Tiềm năng phát triển và xuất khẩu trái cây của ĐBSCL là rất lớn. Tuy nhiên, để đẩy mạnh xuất khẩu trái cây của ĐBSCL trong thời gian sắp đến, chúng ta cần phải thực hiện bốn giải pháp chủ yếu sau đây:

Một là: Hoàn thiện quy hoạch tổng thể vùng trái cây có lợi thế cạnh tranh.

Điểm yếu của trái cây ĐBSCL là chưa có vùng nguyên liệu tập trung đủ lớn để cung ứng những đơn hàng số lượng nhiều và có chất lượng đồng nhất và an toàn đáp ứng nhu cầu xuất khẩu. Để khắc phục điểm yếu này, ngành trái cây cần thực hiện các biện pháp sau:

- Nghiên cứu, quy hoạch, chuyển đổi cơ cấu và đầu tư các vùng cây ăn trái có lợi thế cạnh tranh của từng địa phương để từ đó phát huy thế mạnh của nó. Ngành trái cây cần nhanh chóng hình thành, xây dựng các vùng trái cây chuyên canh có lợi thế như : xoài cát Hoà Lộc (Cái Bè), bưởi da xanh (Bến Tre), bưởi năm roi (Bình Minh), nhãn tiêu da bò, nhãn xuồng cơm vàng (Vĩnh Long), chôm chôm, thanh long, dứa, sầu riêng Chín Hoá, vú sữa Vĩnh Kim (Tiền Giang), cam sành Vĩnh Long …có diện tích từ 5.000 - 7.000 ha trở lên mới đủ sức xuất khẩu.

- Đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng các trang trại, hợp tác xã,hỗ trợ các địa phương quy hoạch vùng trồng cây có diện tích và qui mô lớn, như thế mới có điều kiện áp dụng kỹ thuật trồng trọt tiên tiến.

- Cần phải tăng cường mối liên kết 4 nhà: (1) nhà sản xuất cây ăn trái gồm có nhà vườn, hợp tác xã, nông trường, doanh nghiệp; (2) nhà kinh doanh trái cây: thu mua, đóng gói, bảo quản, xuất nhập khẩu, vận chuyển, ngân hàng, hợp tác xã tiêu thụ; (3) cơ quan khoa học ngành nông nghiệp và (4) đại diện nhà nước ngành nông nghiệp … để đáp ứng yêu cầu đảm bảo số lượng, trái cây chất lượng, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm… để xuất khẩu theo yêu cầu thị trường.

Hai là: Chọn lọc và tạo giống có chất lượng tốt.

Mặc dù, chúng ta đã có Viện Nghiên cứu Trái cây, nhiều trung tâm giống trái cây, tuy nhiên giống tốt sạch bệnh của ta chưa nhiều, chỉ chiếm khoảng 10% -20% giống cây trồng. Mặt khác, giá bán cây giống lại cao nên các nhà vườn rất khó tìm mua được giống tốt nên dẫn đến chất lượng vườn cây ăn quả đặc sản còn thấp. Do đó sản lượng sản xuất trái cây đảm bảo chất lượng không nhiều và chất lượng không đồng đều, đây là một trong những vấn đề mà nhà sản xuất cũng như chính quyền cần chú ý quan tâm. Để có nhiều giống cây trồng tốt trong tương lai phục vụ cho sản xuất trái cây hàng hoá xuất khẩu, chúng ta phải chú trọng đến một số các biện pháp sau đây:

- Trước hết, cần phải chia các mặt hàng trái cây hàng hoá thành 3 nhóm: nhóm những mặt hàng trái cây có lợi thế cạnh tranh cao: dứa, dừa, thanh long; nhóm những mặt hàng trái cây có mức cạnh tranh trung bình, nhưng có triển vọng phát triển trong những năm tới: nhãn, xoài; và nhóm những mặt hàng có sức cạnh tranh yếu hoặc sản lượng hàng hoá còn ít: cam, bưởi, sầu riêng, chôm chôm, chuối, vú sữa. Đồng thời phải tính đến thị trường đầu ra trước rồi mới đi vào sản xuất, vì thực tế hiện nay vùng ĐBSCL vẫn chưa hình thành được thị trường tiêu thụ ổn định, tình trạng "được mùa rớt giá" vẫn luôn xảy ra. Để từ đó vùng ĐBSCL sẽ có chọn lọc các giống cây cho phù hợp với điều kiện sản xuất hiện tại, để tránh tình trạng các nhà vườn trồng cây chỉ được vài năm đã phải đốn bỏ trồng lại vì cây sạch bệnh bị tái nhiễm.

- Viện Nghiên cứu Trái cây, các trung tâm giống trái cây cần phải tăng cường đầu tư, nghiên cứu các giống cây có lợi thế cạnh tranh, sạch bệnh, có chất lượng tốt để từ đó xây dựng lại hệ thống nhân giống và cung ứng giống tốt cho nhà sản xuất.

- Các nhà sản xuất, các nhà vườn cần phải hiểu được chính sách của Nhà nước về sản xuất và lưu thông phân phối cây giống, để từ đó mới có sự chọn lựa cây giống đúng, phù hợp với điều kiện sản xuất của mình.

- Nhà nước cần phải có những giải pháp quản lý chặt chẽ hơn nữa đối với các trung tâm giống cây trồng, để tránh tình trạng nhân các giống cây không sạch bệnh, thiếu chất lượng vì mục đích lợi nhuận.

- Tập trung phát triển các trung tâm chuyên về các cây giống có lợi thế cạnh tranh để cung cấp cho các vùng cây ăn trái chuyên canh, để đảm bảo cây giống tốt, rẽ cho nông dân.

Ba là: Phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ.

Hiện nay tổn thất sau thu hoạch trái cây ở ĐBSCL rất cao, chiếm từ 15% -25%. Nguyên nhân chính là do chúng ta không có bao bì; phương tiện vận chuyển, bốc dỡ phù hợp. Chính vì vậy, để giảm tổn thất sau thu hoạch xuống dưới 15%, chúng ta cần phải thực hiện các biện pháp sau:

- Khuyến khích phát triển ngành nhựa công nghiệp, sản xuất các dụng cụ (gỗ nhựa, khay nhựa, bao nylon…) chuyên dùng để vận chuyển và bảo quản trái cây xuất khẩu như nhãn, chôm chôm, bưởi, cam ….

- Khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp cơ khí, máy móc để sản xuất các dụng cụ, máy móc nông nghiệp phù hợp với vùng phục vụ cho sản xuất, chế biến, bảo quản trái cây như: dụng cụ hái trái, máy bơm - tưới nước, máy phun xịt thuốc trừ sâu bệnh.

- Phát triển ngành công nghiệp vận tải: xe, ghe, xuồng … phục vụ tốt cho quá trình vận chuyển và bảo quản trái cây.

- Xây dựng các nhà máy hoá chất, phân bón thích hợp cho sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là phục vụ cho cây trồng.

Bốn là: Hoàn thiện hệ thống phân phối, bảo quản.

Nếu như hệ thống rau quả ở Mỹ có sự điều phối theo ngành dọc với sự kết hợp nhuần nhuyễn từ khâu sản xuất đến thu mua, chế biến, xuất khẩu ngay từ những năm 80, thì ở VN, hệ thống phân phối rau quả hiện vẫn rất manh mún và tự phát.

Trong thời gian qua ĐBSCL đã đang xây dựng một chương trình thành lập chuỗi giá trị cho mặt hàng rau quả từ 2004 đến năm 2010. Theo đó, chuỗi giá trị sẽ tăng cường các mối quan hệ hợp tác trong hệ thống, và có sự phân công rõ ràng từ khâu sản xuất đến lưu thông. Người đóng vai trò chủ đạo trong chuỗi giá trị này sẽ chính là các doanh nghiệp, bởi họ mới là người nắm rõ nhất thị trường đang "khát" mặt hàng gì để tập trung phát triển. Doanh nghiệp cũng là người có thể mời các nhà khoa học vào nghiên cứu, và vay tiền của ngân hàng một cách thuận lợi hơn. Tuy nhiên, thành lập được một chuỗi giá trị như trên còn rất nhiều khó khăn, bởi nó đòi hỏi sự tham gia của nhiều bên liên quan, từ nông dân, doanh nghiệp, đến các nhà khoa học, những nhà phân phối.

Để thực hiện được một chuỗi giá trị hệ thống phân phối nhuần nhuyễn giữa các khâu, từ khâu sản xuất đến xuất khẩu ĐBSCL cần phải thực hiện một số giải pháp sau:

- Tăng cường tạo sự kết hợp nhuần nhuyễn từ khâu sản xuất đến thu mua, chế biến, xuất khẩu bằng cách tạo mối liên kết 4 nhà: nhà sản xuất, nhà kinh doanh, nhà khoa học và nhà nước. Để từ đó giúp quá trình vận chuyển hàng hoá ngắn hơn, nhanh hơn, ít tốn kém và hao hụt hơn, đáp ứng kịp thời cho mục tiêu xuất khẩu.

- Chính quyền địa phương và ngành trái cây cần phải đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng các trang trại, hợp tác xã,hỗ trợ các địa phương quy hoạch vùng trồng trái cây lớn … có như vậy mới giảm được các chi phí vận chuyển, bốc dỡ, hao hụt sản phẩm.

- Áp dụng phương pháp logic trong khâu bốc dỡ vận chuyển tiêu thụ: áp dụng các phương pháp công cụ hiện đại để nâng cao hiệu quả bốc dỡ hàng hoá, kết hợp vận chuyển hàng hoá 2 chiều để giảm chi phí.

- Đầu tư mua sắm, cải thiện các thiết bị công nghệ bảo quản tiến bộ để giảm tối đa tỷ lệ hao hụt sản phẩm trái cây.

Tóm lại, xuất khẩu trái cây là một giải pháp cứu cánh khơi dậy tiềm năng lợi thế sẵn có của vùng kinh tế ĐBSCL. Xuất khẩu là giải pháp hữu hiệu nhất cho việc phát triển kinh tế của vùng, cải thiện đời sống vật chất nông thôn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, để các chính sách, giải pháp trên đạt được hiệu quả thì các cơ quan ban ngành, các doanh nghiệp, nhà sản xuất phải có sự phối hợp đồng bộ từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ. Nhà sản xuất và các doanh nghiệp cần phải thắt chặt hơn nữa mối liên kết chặt chẽ với nhau, hỗ trợ nhau trong quá trình sản xuất cũng như tiêu thụ xuất khẩu, xây dựng thương hiệu ….phát huy lợi thế trái cây VN nói chung và của ĐBSCL nói riêng.

Tài liệu tham khảo

1. Tôn Thất Nguyễn Thiêm (2004), Thị trường, chiến lược, cơ cấu: Cạnh tranh về giá trị gia tăng và phát triển doanh nghiệp, NXB TP.HCM.

2. Thông tin trên Internet. Các websites:http://www.agroviet.gov.vn; http://www.mot.gov.vn; http://www.fao.vn; http://www.ppd.gov.vn; http://www.vneconomy.com.vn.vn ; http://www.vinanet.com.vn.

Techz.vn đánh giá Khoa Marketing, UFM