Bao giờ nông dân bán nông sản qua sàn giao dịch?
Anh Thư, Dak Lak
Thứ Ba, 25/1/2011, 11:27 (GMT+7) |
Bao giờ nông dân bán nông sản qua sàn giao dịch?
Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online xin giới thiệu tới độc giả loạt bài viết phản ánh thực trạng cũng như những tham vọng của các sàn giao dịch nông sản trong nước hiện nay. Kỳ 1: Nhìn từ sàn giao dịch cà phê Anh Thư, Dak Lak Lâu nay báo chí lẫn người trồng cà phê ở Tây Nguyên đã bàn nhiều, nói nhiều về Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột (viết tắt là BCEC), cứ mỗi khi có tin tức nói về BCEC thì không chỉ trên các diễn đàn về cà phê mới tranh luận sôi nổi mà các phương tiện truyền thông đại chúng khác cũng nói đến nhiều, cho dù những ý kiến còn trái ngược nhau, nhưng cho dẫu thế nào thì chúng ta cũng phải chấp nhận rằng điều đó chứng tỏ chúng ta có quan tâm đến sự ra đời và hoạt động của BCEC. Nghĩ về sàn cà phê Tôi không có ý bình luận gì về quan điểm của mỗi người về tính hiệu quả của BCEC trong thời gian qua mà chỉ xin đưa ra một số thông tin mà tôi biết cũng như một số suy nghĩ của mình về sàn giao dịch với ước mong tương lai sàn sẽ khẳng định được vị trí của mình trong ngành cà phê Việt Nam. Chủ trương xây dựng một nơi để cho người mua và bán cà phê gặp nhau ở quy mô xứng tầm với sự phát triển cà phê của nước nhà trên bản đồ địa lý cà phê thế giới là một điều phải làm sớm hay muộn mà thôi, bởi đó cũng là con đường mà các nước tiên tiến đã đi qua thành công và đó cũng là nền móng cho xu hướng hội nhập thị trường thế giới. Bước thứ nhất của BCEC là tạo cho người nông dân có một chỗ đứng bình đẳng trong vị trí của người bán sản phẩm, mà không phải chạy quanh thông qua năm tầng mười lớp rải đầy những rủi ro, phía đối diện là người mua xuất khẩu, những doanh nghiệp nước ngoài có cơ hội mua trực tiếp cà phê thông qua hệ thống trực tuyến của sàn. Dựa trên căn bản dùng thị trường kỳ hạn để bảo hộ cho hàng thực, giảm thiểu những tác động xấu do "được mùa mất giá, được giá mất mùa" bởi người bán có thể rải đều lượng bán hàng giao thực qua các tháng. Sau hai năm hoạt động BCEC đã nhiều lần điều chỉnh những chính sách đưa ra lúc đầu chưa được phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam, nhằm tạo mọi điều kiện dễ dàng hơn để cho nông dân tiếp cận với cách bán hàng mới, ví dụ như: - Giảm lượng hàng tối thiểu một lần bán trước đây theo lô (lot) của thị trường London (Liffe) là 5 tấn (nay 1 lot của Liffe là 10 tấn) xuống còn chỉ 1 tấn, để cho người nông dân có ít cũng bán vào được thông qua BCEC. - Mở ra một phương hướng cho người nông dân có thể bán hàng khi cà phê còn nằm trên cây mà gặp lúc giá tốt và giao hàng sau để tránh bán hàng đồng loạt sau khi thu hoạch. - Công tác kiểm hàng công bằng và vô tư thông qua công ty kiểm định đóng vai trò trọng tài hàng đầu là Cafe Control khi nông dân giao hàng cho bên nhận, cà phê được chăm sóc tốt có tỷ lệ hạt lớn loại 1 cao, hay cà phê được chế biến sạch ít tạp chất hơn 1% sẽ được cộng thêm giá, điều này khuyến khích nông dân đầu tư tốt hơn cho chăm sóc và sơ chế bước đầu để nâng cao chất lượng cà phê ở giai đoạn quyết định. - Mở nhiều đợt tuyên truyền qua hội thảo đến nhiều huyện cùng với sự kết hợp của nhiều ngành như ngân hàng, công ty kiểm định, công ty tiếp nhận hàng hóa ... để giải thích chi tiết cho nông dân. - Hàng hóa gởi vào sàn nếu chưa muốn bán không lo bị mất như gởi cho các đại lý, không những thế còn được ngân hàng cho vay 70% giá trị thời điểm lô hàng gởi dựa trên chứng thư gởi kho. - Nghiên cứu hướng thành lập các điểm giao hàng nằm xa trung tâm để tiện cho việc giao nhận giữa nông dân và sàn giao dịch. Và rất nhiều điểm khác nữa thể hiện sự cố gắng của sàn giao dịch cà phê vốn "cũ người nhưng mới ta". Tại sao sàn chưa hấp dẫn nông dân, doanh nghiệp?
Về phía người mua, trừ một số doanh nghiệp nước ngoài tham gia và một ít các doanh nghiệp trong nước, tại sao các doanh nghiệp thu mua cà phê xuất khẩu nổi tiếng Việt Nam không có trong danh sách?. Lượng hàng nhập vào của sàn còn ít hơn một đại lý nhỏ cấp huyện. Đứng ở góc độ người quan sát tôi nhận thấy vì những điểm sau đây: cho dù trong thời gian qua hệ thống đại lý bộc lộ nhiều điều bất cập như nhận hàng gởi của nông dân rồi làm ăn thua lỗ mà trốn mất. Rồi hàng hóa qua nhiều khâu trung gian nhiều khi đấu trộn vào thêm những thứ không phải là cà phê hoặc cà phê hạt đen không phải chỉ để tăng lợi nhuận mà cho đúng tiêu chuẩn hàng giao loại R2; loại 1% tạp chất, 5% đen vỡ để rồi các nhà chế biến phải nhập hay mua thiết bị cao cấp về mới loại ra được các thành phần tạp nham để có loại hàng chất lượng cao hơn R2. Nhưng chúng ta không thể chối cãi một điều rằng từ lâu nông dân xem những đại lý này là các bà đỡ của mình, từ chuyện cưới xin, tang lễ, lo cho con ăn học cho đến khi khó khăn lúc giáp hạt, từ dầu tưới cho đến phân bón thuốc trừ sâu, đều có hệ thống "ngân hàng nhân dân" một cách nói ví von của người trồng cà phê - sẵn sàng đáp ứng, dẫu sao thì một bà lang vườn làm công tác bà đỡ ở gần vẫn tốt hơn một bác sĩ sản khoa có trình độ chuyên môn cao nhưng ở quá xa. Không chỉ mối thâm tình tối lửa tắt đèn có nhau, lúc đem trả nợ bằng sản phẩm thì tiện thể bán luôn phần còn lại hoặc sau đó thì cũng bán cho đại lý khi mà hệ thống này phục vụ đến tận mỗi nhà. Chúng ta có thể thấy điều khác biệt là các đại lý đầu tư sâu rộng ngay khi nông dân chưa có cà phê, trong khi hệ thống ngân hàng thương mại chưa làm tròn được nhiệm vụ này và thường có xu hướng hỗ trợ khi nắm được hàng trong tay, chưa nói đến những thủ tục "hành tỏi" khác mà để vượt qua nó mà nông dân cảm thấy còn mệt mỏi hơn là đi đào bồn trồng cà phê. Các công ty xuất khẩu cà phê tên tuổi trong nước cũng không tham gia vì nhiều lý do, trong đó rõ ràng nhất là hầu hết các công ty này đều có mạng lưới chân rết thu mua sâu rộng truyền thống từ lâu, các quy định, thông lệ được thống nhất bằng văn bản hay phi văn bản trong hệ thống của chính họ từ người mua trung gian đến nhà máy của công ty đã gắn chặt và được phổ biến lâu đời, các công ty này không có nhu cầu phải tìm đến với sàn mới có được cà phê cho nhà máy.
Điều kiện đặt ra để trở thành thành viên tại BCEC bảo đảm sự chặt chẽ mang tính pháp lý cao và là điều cần thiết đối với một sàn giao dịch chuyên nghiệp nhưng quả thật không hề đơn giản và dễ hiểu đối với nông dân. Ở đây tôi chỉ xin nói một số điểm chính. Theo định nghĩa của BCEC có 3 loại thành viên là gồm thành viên đăng ký bán là tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, thành viên kinh doanh là tổ chức, hộ kinh doanh và thành viên môi giới là các tổ chức. Có hướng dẫn cụ thể cho 2 loại thành viên kinh doanh và thành viên môi giới, nhưng không hề thấy hướng dẫn cho thành viên đăng ký bán trong khi đây là đối tượng quan trọng nhất để có hàng thực cung cấp cho người mua cũng như dùng thị trường giao sau để phòng hộ hàng thực cho người bán (tôi đã cố tìm trên website của BCEC nhưng không thấy, nếu ai có xin cho đường link). Cuối cùng thì vai trò trung gian của các bà đỡ vẫn là còn cần thiết, bởi để có được mạng lưới thu gom từng tạ, từng tấn từ nông dân để giao vào các kho tiếp nhận của BCEC, chưa nói đến sự ký quỹ bắt buộc phải có đối với thành viên để chịu trách nhiệm về lệnh bán, mua và giao hàng của mình mà nông dân ít người có đủ để tự tham gia trực tiếp. Bên cạnh đó theo tôi chính BCEC cũng cần nghiên cứu lại một số vấn đề như sau: trong quy định để trở thành thành viên kinh doanh điều kiện phải có là: vốn điều lệ/vốn đầu tư tối thiểu 75 tỉ đồng (đối với giao dịch cà phê kỳ hạn). Theo tôi biết thì việc giao dịch tại sàn (nói chung) phải lấy khoản tiền ký quỹ để chịu trách nhiệm sự mua/bán khối lượng giao dịch, với điều khoản này BCEC đã bỏ qua những công ty có vốn điều lệ/vốn đầu tư 74,9999 tỉ trở xuống. Một điều kiện khác nữa cũng khiến cho một số vị lãnh đạo các công ty chạnh lòng đó là chủ nhiệm hợp tác xã, giám đốc/tổng giám đốc có bằng đại học trở lên. Theo yêu cầu trên thì nếu ông Bill Gates có chuyển sang nghề buôn cà phê thì cũng sẽ không đủ điều kiện để trở nên thành viên vì ông ấy chưa có bằng đại học, cho dù tài sản của ông có gấp 50 năm tổng doanh thu của ngành cà phê Việt Nam. Góp ý thêm Các bản quy định của sàn để trừ hàng nhập khi chưa đạt tiêu chuẩn cần được biên soạn sao cho phải theo thông lệ của thị trường đã có hàng mấy chục năm qua và quá quen thuộc với hầu hết những người có liên quan đến cà phê, như bản tiêu chuẩn trừ độ ẩm, tạp chất, đen vỡ. Người nông dân muốn công khai tất cả những quy định, thông báo ban hành từ BCEC để người muốn tham gia dễ dàng tham khảo trên website, đồng thời cần có những chuyên gia giỏi để phân tích định hướng cũng như cảnh báo những rủi ro theo tình hình thị trường, tạo kênh thông tin thường xuyên giữa khách hàng và BCEC, như cách mà các sàn giao dịch nước ngoài hay làm. Không thể nói đã thành lập 2 năm mà BCEC hiện chưa hoàn thiện hệ thống website (bạn đọc vào thử www.bcec.vn sẽ rõ) được bởi đây là điều nằm trong tầm tay. Mở rộng cánh cửa của trung tâm và khu vực tiếp nhận hàng hóa để hân hoan chào đón nông dân như cách của các ngân hàng lớn đang làm đối với khách hàng của họ, ít nhất trước mắt cũng làm vui lòng nông dân có lượng hàng trong tay từ 5-7 tấn/năm trở lên vào sàn giao dịch. Ngoài ra, những tiểu tiết mà sàn cũng nên quan tâm, nghiên cứu kỹ hơn, đó là tâm lý người nông dân không thích bị hỏi "anh đến gặp ai? có việc gì?" hay đại loại như "Ra vào cơ quan xuống xe dẫn bộ" khi bước chân vào trụ sở sàn giao dịch. Còn bao lâu nữa để cho tiếng cồng của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải gióng lên khai trương ngày nào vẫn vang xa và kêu to mãi thì còn tùy thuộc vào sự nhiệt tâm và cố gắng của BCEC lẫn của nông dân trồng cà phê và của cả các doanh nghiệp. |
Kỳ 2: Sàn giao dịch hàng hóa: Tiềm ẩn nhiều rủi ro
Thái Hằng
Thứ Tư, 26/1/2011, 11:56 (GMT+7) |
Kỳ 2: Sàn giao dịch hàng hóa: Tiềm ẩn nhiều rủi ro Thái Hằng
>>Tiếp tục chờ sàn giao dịch >>Thay đổi thói quen nông dân: nhìn từ sàn cà phê >>Giao dịch cà phê kỳ hạn: cũ người nhưng khó ta >>Hơn 200 tấn đường giao dịch qua Sacom-STE >>Bao giờ nông dân bán nông sản qua sàn giao dịch? Từ thất bại của phương thức giao ngay Phần lớn các sàn giao dịch đang hoạt động đều áp dụng phương thức giao dịch giao ngay khá đơn giản với ưu điểm là giá cả minh bạch, hàng hóa qua kiểm định, có chất lượng và việc thanh toán diễn ra chỉ một hoặc hai ngày sau khi khớp lệnh. Nhưng với kiểu giao dịch này, nhiều sàn giao dịch cũng không tránh khỏi khó khăn, chủ yếu đến từ thói quen mua bán của nông dân và doanh nghiệp. Sàn giao dịch đường (gồm hai mặt hàng đường thô và đường tinh) của Công ty cổ phần Giao dịch hàng hóa Sài Gòn Thương Tín (Sacom-STE) ra mắt vào tháng 3-2010, nhưng đến tháng 11 thì mỗi phiên chỉ giao dịch trên dưới 10 tấn đường. Trong khi sàn cần một con số gấp 50 lần để các bên mua bán có thể tiến hành giao dịch. Ít lâu sau đó, giá đường trong nước lẫn thế giới tăng lên vùn vụt, nhà máy và doanh nghiệp "mặn mà" hơn với chuyện trữ đường tại kho chờ giá lên thì sàn giao dịch đường của Sacom-STE cũng gần như ngưng hoạt động vì không còn người bán... Trước đó, Sacom-STE đã đầu tư một hệ thống cơ sở hạ tầng khá bài bản, từ phần mềm giao dịch, bảng điện tử, hệ thống kho lưu ký, và đặc biệt, có tập đoàn tài chính Sacombank đứng đằng sau, hỗ trợ cho giao dịch thanh toán. Bên cạnh đó, giao dịch sàn hướng đến là các giao dịch thật với hàng hóa thật. Ông Phan Vũ Hùng, Giám đốc Sacom-STE, cho rằng vấn đề không nằm ở chất lượng hàng hóa vì đường đã được giám định trước khi lưu ký tại hệ thống kho của Sacom-STE nên được nhiều doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo, nước giải khát ưa chuộng vì chất lượng khá đồng đều và đảm bảo. Cái khó của sàn nằm ở việc sổ sách chứng từ và giá cả qua sàn được minh bạch hóa lại không "được lòng" nhiều công ty đường vốn đã quen với hình thức mua bán có các khoản "hoa hồng" ngoài sổ sách. Giá đường trên thị trường biến động mạnh theo chiều hướng tăng từ thời điểm giữa năm kéo dài đến tận vụ ép vào tháng 9, tháng 10 do nguồn cung thiếu hụt lại càng thúc đẩy các công ty đường có cam kết tham gia trước đó, quay lưng lại với sàn giao dịch. Đến sức hút giao dịch kỳ hạn Trong bối cảnh các sàn giao dịch trong nước loay hoay với việc tìm kiếm khách hàng cho các sản phẩm giao ngay thì đã có không ít doanh nghiệp xuất khẩu tham gia các giao dịch kỳ hạn ở các sàn giao dịch như giao dịch cà phê Robusta trên sàn Liffe ở London hay cà phê Arabica trên sàn Nybot của Mỹ, Tocom của Nhật Bản... thông qua môi giới của các ngân hàng như Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), hay Techcombank. Với giao dịch loại này, doanh nghiệp chỉ cần ký quỹ một số tiền chiếm tỷ lệ chỉ một vài phần trăm so với giá trị hàng hóa giao dịch (ảo) là có thể mua bán ngay mà chẳng cần có hàng hóa lưu kho, tiết kiệm được rất nhiều chi phí cho lãi vay, chi phí lưu kho, vận chuyển... Mức độ tham gia của các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng nhiều, đến mức sàn giao dịch hàng hóa Sicom nổi tiếng của Singapore tháng 4 năm trước đã qua Việt Nam để quảng bá cho giao dịch kỳ hạn duy nhất với mặt hàng cà phê Robusta. Nhận thấy xu hướng và mong muốn thu hút được các doanh nghiệp xuất khẩu nói trên, các sàn giao dịch trong nước gần đây cũng nhanh chóng đưa giao dịch kỳ hạn vào danh mục các sản phẩm cung cấp cho khách hàng. Ngày 1-11 vừa qua, Công ty cổ phần Giao dịch hàng hóa Việt Nam đã đưa vào hoạt động Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam (Vietnam Commodity Exchange - VNX) với giao dịch kỳ hạn dành cho ba mặt hàng được Bộ Công Thương cấp phép là cà phê, cao su và thép. Mới đây, ông Nguyễn Tuấn Hà, Giám đốc Trung tâm Giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột, cho biết sau một thời gian triển khai giao dịch giao ngay, trung tâm sẽ khai trương giao dịch kỳ hạn nhân sự kiện Festival cà phê lần thứ 3 diễn ra ở tỉnh Daklak vào tháng 3 tới. Theo ông Hà, khai trương giao dịch kỳ hạn nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường là tạo ra một kênh đầu tư cho các doanh nghiệp trong bối cảnh kỳ vọng vào giá cà phê xuất khẩu vẫn tiếp tục đứng ở mức cao, trong khi một số kênh đầu tư phổ biến của doanh nghiệp như chứng khoán, bất động sản còn gặp nhiều khó khăn. Rủi ro cao
Theo ông Nguyễn Văn Nam, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thương mại - Bộ Công Thương, chuyên gia về sàn giao dịch hàng hóa, thì việc sàn giao dịch hàng nông sản ở Việt Nam đứng ra cung cấp hợp đồng kỳ hạn trong bối cảnh các quy định pháp luật chưa có, giao dịch chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế, yếu kém về tổ chức lẫn năng lực đang tiềm ẩn nhiều rủi ro lớn. Những quy định chung nhất về cơ sở pháp lý và thể lệ sàn giao dịch hàng hóa hiện nay đã có trong Nghị định 158/2006/NĐCP. Đến năm 2009, Bộ Công Thương tiếp tục hướng dẫn việc cấp phép thành lập và chế độ báo cáo của Sở Giao dịch hàng hóa bằng Thông tư 03/2009/BCT. Sau đó, bộ cũng tiếp tục công bố danh mục sản phẩm được mua bán qua sàn giao dịch hàng hóa, gồm cao su, cà phê nhân, mủ cao su thiên nhiên và một số loại thép. Thế nhưng điều cần nhất là quy định chi tiết về tổ chức để một sàn giao dịch hàng hóa hoạt động thì cho đến nay vẫn chưa được bộ hướng dẫn cho doanh nghiệp. Ông Nam cho biết, về bản chất giao dịch kỳ hạn nhằm giúp nông dân - nhà sản xuất, người kinh doanh biết được mức giá tương ứng với kỳ vọng hàng hóa trong tương lai nhằm định hướng, tính toán các kế hoạch sản xuất kinh doanh. Đặc biệt với nông sản thì giá giao dịch kỳ hạn sẽ giúp nông dân tính toán được nhu cầu và giá cả trong các vụ tiếp theo, tránh tình trạng được mùa mất giá như vẫn xảy ra. "Tuy nhiên, tổ chức giao dịch kỳ hạn trong khi trình độ tổ chức và quản lý các sàn giao dịch hàng hóa ở nước ta đều còn khá non kém trong bối cảnh cơ sở pháp lý lẫn thể lệ hoạt động đều lỏng lẻo nên nguy cơ xảy ra tình trạng thiếu thanh khoản trong giao dịch, hay tranh chấp xảy ra là khó tránh khỏi" ông nói thêm. Trong khi đó, theo một giám đốc sàn giao dịch thì điều kiện để thành lập sàn giao dịch hàng hóa thực chất rất đơn giản, chủ yếu là cần số vốn đăng ký đạt 150 tỉ đồng và một số cơ sở vật chất cơ bản là đã có thể mở sàn. Theo ông này, loại giao dịch kỳ hạn này, với hàng hóa chủ yếu nằm trên giấy, được mở ra thực chất nhắm đến phục vụ cho tâm lý đầu cơ, kiếm lãi trong ngắn hạn của các nhà sản xuất và thương mại. Một doanh nghiệp đang tham gia sàn giao dịch cà phê quốc tế thì đề cập đến một nguy cơ khác là các sàn trong nước tổ chức giao dịch kỳ hạn trong khi trình độ tổ chức còn non kém sẽ nhanh chóng làm "mồi" cho các thế lực kinh doanh nông sản lớn trên thế giới. |
Anh Thư
Thứ Sáu, 28/1/2011, 09:37 (GMT+7) |
Anh Thư
>> Bao giờ nông dân bán nông sản qua sàn giao dịch? >> Xem bài "Bão không đến từ biển" đăng trên TBKTSG số 27 ra ngày 29-6-2006 bằng file word >> Kỳ 2: Sàn giao dịch hàng hóa: Tiềm ẩn nhiều rủi ro Lúc mở cửa sàn vàng người ta có một ngàn lẻ một lý do tốt đẹp cũng như những ưu điểm được phân tích hùng hồn để mở, và gần 3 năm sau khi nhận thấy loài ký sinh cờ bạc nó trưởng thành nhanh chóng và bắt đầu gây hại đến chủ thể thì cũng có không kém chừng đó nguyên do để đóng cửa sàn vàng. Sau năm 2000 tại Daklak và Gia Lai đã xuất hiện một hệ thống chơi "cà phê giấy", hay có người còn gọi là "hàng future", căn cứ trên giá cà phê của hai thị trường Liffe và CSCE đã lôi kéo một lượng người khá lớn tham gia, điều đặc biệt là hầu hết những người chơi còn không biết luật chơi của cái thị trường này nó ra làm sao? Lúc đầu chỉ biết là mua bán cà phê "trên mạng" một đêm lời đến những vài tỉ đồng, để rồi sau đó nhanh chóng biến thành những con thiêu thân mua bán cà phê "liều mạng" đến nỗi rất nhiều người tán gia bại sản, thậm chí đi tù, tất nhiên là đi tù vì tội danh khác nhưng cũng xuất phát từ cà phê giấy, mà sau đó một số ngân hàng thương mại nghe ngóng bất kỳ một đại lý, công ty nào có dính dáng đến cái chữ "mạng" hay "giấy" là tìm đường thoái thác cho vay. Chúng ta không phản đối chương trình xổ số kiến thiết quốc gia cũng như không phản đối sự ra đời của một sàn giao dịch nông sản hoạt động vì ích lợi cộng đồng trong tính chất giao hàng kỳ hạn và tính chất bảo hộ hàng thực mà một số bài viết đã phân tích.
Cũng tương tự như sàn vàng, sự biến thiên khá lớn của sàn giao dịch cà phê là tính hấp dẫn cho những nhà đầu tư, sẽ không có gì để nói khi một nông dân đứng tại thời điểm tháng 9 (lúc chưa thu hoạch cà phê) nhìn thấy giá tháng 11 trên thị trường Liffe ở London đang cao và thỏa mãn cho sự đầu tư trồng trọt của mình và anh ta quyết định bán kỳ hạn giao tháng 11 cho sản phẩm nhằm tránh rủi ro theo nhận định đến tháng 11 giá sẽ hạ lúc đi vào cao điểm thu hoạch. Vấn đề sẽ khác đi trong một hoàn cảnh khác khi một người bỏ ra số tiền ngang bằng khoảng 1 tấn cà phê thật để ký quỹ cho đặt lệnh bán/mua với giá trị tương đương 10 tấn trên mạng (thường mua bán qua sàn Liffe chỉ cần ký quỹ 10% giá trị hàng thật từng thời điểm). Tôi xin đưa ra ví dụ: một người sau khi ký quỹ đang đứng tại thời điểm tháng 9 nhìn thấy giá tháng 11 đang giao dịch tăng và có cùng nhận định như anh nông dân nói trên là trong tương lai càng gần tháng 11 giá sẽ sụt giảm nên ra lệnh bán giao hàng tháng 11 với giá 2.000 đô la/tấn. Đến gần thời điểm giao hàng tình hình thực tế lại không như nhận định là sụt mà giá lại tăng lên 2.200 đô la/tấn, đối với anh nông dân thì được xem như là mất lời, nhưng không lỗ bởi sự lỗ lãi của anh nông dân được cân đối trên sự đầu tư vườn cây trong năm, quá trình cân nhắc bán giá nào của anh nông dân cũng tác động thị trường và phản ánh lên tình hình thực tế của giá thành sản xuất như một chuỗi hệ quả của thị trường thực. Thế nhưng đối với một người chơi hàng giấy thì phải mua vào lại từ trên mạng để thanh toán cho cái vị thế bán trước đây của mình đã tạo, động tác mua vào lại của nhà đầu tư này gọi là mua bù bán mà trong thuật ngữ thị trường gọi là Short Covering (xem chi tiết các thuật ngữ giao dịch nông sản thế giới tại đây). Đến đây chúng ta đã thấy nhà đầu tư lỗ 200 đô la x 10 tấn = 2.000 đô la. Nếu như trước đây nhà đầu tư này đã ký quỹ vào hệ thống ngân hàng trung gian giao dịch giữa họ và thị trường Liffe là 2.000 đô la thì từ nay trở đi nhà đầu tư này sẽ không còn quyền ra lệnh bán hay mua gì nữa, muốn chơi tiếp thì họ phải đặt tiếp tiền ký quỹ vào, đoạn này giống như chơi bài xì phé vậy, phải đặt "chến" (như một cách ký quỹ ban đầu) vào thì mới được chơi tiếp. Nó còn nghiệt ngã hơn cả chơi xì phé trong trường hợp giả sử nhà đầu tư chỉ lỗ ví dụ 1.700 đô la, tức là còn 300 đô la trong tiền ký quỹ thì vẫn không được chơi tiếp vì số tiền không đủ bảo đảm lượng tối thiểu để bán hay mua. Vẫn chưa hết, nếu như mức lỗ của nhà đầu tư nằm đúng với số tiền họ đã ký quỹ thì theo quy định của Stoploss (ngưng thua lỗ) sẽ tự động chốt giá giùm cho anh ta khi giá đụng đến mức 2.200 đô la/tấn, nếu muốn không bị tự động ngưng thua lỗ để chờ cơ hội biết đâu giá xuống lại thì phải đóng tiếp tiền ký quỹ vào sao cho phải cao hơn mức có thể lỗ tiếp. Tôi đã từng chứng kiến nhiều nhà đầu tư thiêu thân chạy vạy xoay xở tiền bằng mọi giá, bằng mọi loại lãi suất nóng đóng vào ngân hàng trung gian để không bị stoploss, nhưng sau đó vẫn dính stoploss, có nghĩa là họ mất luôn cả tiền vừa đóng vào thêm. Người ta thường lấy định luật bảo toàn của nhà bác học Lomonoxop để nói đùa "tiền bạc không mất trong không gian, nó chỉ được chuyển đổi từ túi của người này sang người khác" trong trường hợp này rõ ràng là nó chạy từ túi người thua sang người thắng và chúng ta thử xem người thắng là ai? Họ là những nhà đầu tư lớn từ nước ngoài, tham gia cuộc chơi trên sàn giao dịch với một nguồn tài chính hùng mạnh với đầy đủ thông tin cung cấp từ những tay phân tích chuyên nghiệp trên mọi bình diện từ thời tiết, kinh tế - chính trị 5 châu cho đến đồng tiền các nước mạnh yếu thế nào trong những ngày tới, họ thừa sức biết lúc nào nên bỏ ra lỗ nhỏ và lúc nào nên gom hết.
Tôi không có ý tự ti chúng ta nhỏ bé nhưng biết người biết ta cũng là một quyết sách của ngày xưa nhờ vậy mà Tư Mã Ý còn sống sót để xây dựng lên nhà Tấn nhờ tránh đối đầu trực diện với Khổng Minh. Cách chơi trên sàn nông sản hiện nay trên thế giới chẳng khác chơi tài xỉu là mấy, một người đánh cược vào tài (lớn) với hy vọng tổng của 3 con xúc xắc lớn hơn 10 và ngược lại trong cùng thời điểm có người hy vọng nó là xỉu (nhỏ - từ 10 trở xuống) cũng với ba con xúc xắc sau khi lắc, những tay cờ bạc bịp có thể lắc xúc xắc ra tài hay xỉu là tùy ý, tùy vào bên nào có lượng tiền đặt lớn hơn. Cũng tương tự như tài xỉu, một người ra lệnh mua vào với hy vọng giá lên để bán ra là người đang theo phía "tài" trong thuật ngữ thương mại tiếng Anh gọi là những người theo "Bullish Trend" - xu hướng tăng và ngược lại là những người ra lệnh bán ra để chờ giá hạ xuống sẽ mua thuộc về phía "Bearish Trend" - xu hướng hạ là những người đang hy vọng sẽ ra kiểu "xỉu". Sở dĩ tôi đem so sánh vấn đề sàn giao dịch nếu làm ăn theo kiểu nêu trên giống như đánh tài xỉu là bởi giữa hai
Nếu như số tiền thắng thua này chạy vòng quanh trong nước thì chúng ta có thể yên tâm với định luật của ngài Lomonoxop nhưng vấn đề không phải vậy, khi chuyển số tiền này cho người thắng ở nước ngoài bằng đô la, trong khi có biết bao nhiêu rào cản để chống chảy máu ngoại tệ mạnh nhưng lại để ngoại tệ ngang nhiên sắp hàng tự nguyện chảy ra một cách hợp pháp thông qua chơi hàng giấy, qua ngân hàng trung gian. Điều đáng buồn là hàng trăm công ty nông sản trong nước chơi hàng giấy qua các ngân hàng trung gian được ngân hàng nhà nước cho phép nhưng hàng năm, không một ngân hàng nào công bố tổng lượng ngoại tệ giao dịch với các sàn nông sản nước ngoài là bao nhiêu, phía doanh nghiệp Việt Nam thua bao nhiêu, thắng bao nhiêu? |