CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN THỰC PHẨM CỦA THÁI LAN
ThS. Bảo Trung
1. Tổng quan ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Thái Lan
Thái Lan là một quốc gia xuất khẩu hàng thực phẩm chế biến lớn trên thế giới. Năm 2000, ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Thái Lan chiếm 15,7% trong tổng số các doanh nghiệp. Đây là một ngành với số lượng doanh nghiệp đông đảo và là ngành thâm dụng lao động. Năm 1999, số lao động trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm là 389.000 người chiếm 18% lực lượng lao động trong ngành công nghiệp. Ngành công nghiệp dệt may cũng là ngành thâm dụng lao động nhưng chỉ đứng vị trí thứ hai, chiếm 10,4% lực lượng lao động. Tiền lương bình quân của công nhân trong ngành công nghiệp chế biến thực phẩm khoảng 7.400 baht, tương đương 172 USD/tháng.
Trước năm 1960, Thái lan chủ yếu xuất khẩu nông sản sơ chế, chủ yếu là công nghệ làm khô. Phần lớn các nông sản ở nông thôn không được chế biến. Các nhà máy chế biến thì chủ yếu là tập trung xay xát lúa gạo và trích ly dầu dừa. Khoảng thời gian 1960-1970, Thái Lan đã nhập công nghệ chế biến sữa đặc có đường và rau quả đóng hộp từ Đài Loan và Nhật Bản. Giai đoạn 1970-1980, Thái Lan đã chuyển hướng từ sản xuất thực phẩm thay thế hàng nhập khẩu sang sản xuất thực phẩm để xuất khẩu. Thái Lan đã nhập công nghệ chế biến thực phẩm và công nghệ quản lý tiên tiến từ EU và Hoa Kỳ để sản xuất hàng xuất khẩu. Chính phủ xác định 4 nhóm sản phẩm chế biến xuất khẩu chính là thịt, thủy sản, rau quả và ngũ cốc. Giai đoạn 1980-1990, Thái Lan bắt đầu tăng tốc phát triển ngành công nghiệp nói chung và ngành chế biến thực phẩm nói riêng. Sau khi thiết lập được một số thị trường cũng như mang được một số công nghệ từ Mỹ và châu Âu, xuất khẩu của quốc gia đạt mức tăng trưởng 26% vào năm 1990. Giai đoạn 1990 - đến nay, do sự cạnh tranh cạnh tranh khốc liệt trên thương trường thế giới và nhiều chính sách thương mại trên thế giới thay đổi nên các nhà sản xuất và khách hàng quan tâm nhiều hơn về vệ sinh của quá trình sản xuất, an toàn thực phẩm, chi phí sản xuất, giá trị gia tăng, các tiêu chuẩn và quy định về môi trường.
Qua 40 năm phát triển, khu vực chế biến thực phẩm đã mang lại thu nhập cho Thái Lan khoảng 10 tỷ USD mỗi năm. Thái Lan là một trong 10 quốc gia xuất khẩu các sản phẩm thực phẩm chế biến sau:
- Đứng đầu thế giới xuất khẩu dứa đóng hộp, nước dứa và dứa cô đặc.
- Thứ hai thế giới xuất khẩu thủy sản (đặc biệt là cá ngừ đóng hộp)
- Thứ nhất thế giới xuất khẩu tôm đông lạnh
- Một trong 10 nước xuất khẩu thịt gà đông lạnh
- Nhà xuất khẩu chủ yếu về bắp non và trái cây nhiệt đới.
- Chiếm vị trí xuất khẩu thực phẩm thứ hai châu Á chỉ sau Trung Quốc. (xem bảng 1)
Bảng 1: Các quốc gia xuất khẩu thực phẩm hàng đầu thế giới
Các quốc gia |
Giá trị xuất khẩu (tỷ USD)
|
Tỷ trọng so với thế giới (%)
| ||||
2000
|
2001
|
2002
|
2000
|
2001
|
2002
| |
EU |
180,38
|
182,98
|
195,95
|
41,76
|
41,83
|
41,83
|
Hoa Kỳ |
54,04
|
53,86
|
52,89
|
12,51
|
12,31
|
11,29
|
Canada |
17,63
|
19,18
|
18,75
|
4,08
|
4,39
|
4,00
|
Trung Quốc |
13,56
|
14,22
|
16,16
|
3,14
|
3,25
|
3,45
|
Thái Lan |
10,65
|
11,07
|
9,94
|
2,47
|
2,53
|
2,12
|
Mexico |
8,11
|
8,14
|
8,03
|
1,88
|
1,86
|
1,71
|
Singapore |
3,08
|
2,77
|
2,85
|
0,71
|
0,63
|
0,61
|
Hàn Quốc |
2,66
|
2,52
|
2,46
|
0,62
|
0,58
|
0,53
|
Nhật Bản |
2,17
|
3,06
|
2,21
|
0,50
|
0,70
|
0,47
|
Khác |
139,63
|
139,6
|
159,16
|
32,33
|
31,92
|
33,98
|
Tổng cộng |
431,91
|
437,4
|
468,4
|
100,00
|
100,00
|
100,00
|
Nguồn: Thống kê thương mại thế giới WTO, năm 2003.
Hiện nay, Thái Lan có gần 10.000 nhà máy chế biến thực phẩm chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME). Theo phân loại của Bộ Đầu tư của Thái Lan (Board of Investment of Thai Lan – BOI), doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có quy mô thấp hơn 10 triệu baht, quy mô trung bình 10-100 triệu baht và quy mô lớn trên 100 triệu baht. Trong số gần 10.000 nhà máy chế biến thì trên 80% là doanh nghiệp nhỏ (Xem bảng 2). Tuy nhiên đối với những nhà máy nhỏ được thành lập ở nông thôn với 5-10 thành viên thì không phải đăng ký kinh doanh nên không đưa vào số thống kê.
Bảng 2: Số nhà máy chế biến phân theo quy mô nhỏ, trung bình và lớn ở Thái Lan năm 1997
Hàng hóa |
Nhỏ
|
Trung bình
|
Lớn
|
Tổng cộng
|
Sữa |
48
|
37
|
11
|
96
|
Thủy sản |
346
|
129
|
40
|
515
|
Dầu ăn |
193
|
59
|
21
|
273
|
Rau quả |
366
|
158
|
28
|
552
|
Cây ăn hạt và củ |
4.516
|
170
|
32
|
4.718
|
Bột gạo và bột mỳ |
1.456
|
123
|
24
|
1.603
|
Đường |
128
|
12
|
52
|
192
|
Cà phê, cacao và bánh kẹo |
475
|
59
|
18
|
552
|
Gia vị |
393
|
57
|
8
|
458
|
Nước uống và các loại nước uống không cồn |
209
|
46
|
24
|
279
|
Các sản phẩm khác không phải thủy sản |
417
|
43
|
15
|
475
|
Tổng cộng |
8.547
|
893
|
273
|
9.713
|
Tỷ trọng (%) |
88,00
|
9,19
|
2,81
|
100,00
|
Nguồn: BOI, 1997
Xét về tỷ trọng các mặt hàng thực phẩm chế biến của Thái Lan thì đứng đầu là hàng thủy sản, với tỷ trọng là 34,05% tổng kim ngạch xuất khẩu (Xem bảng 3). Thái Lan là quốc gia xuất khẩu cá ngừ lớn trên thế giới mặc dù không phải là quốc gia có sản lượng đánh bắt cá ngừ lớn. Đứng thứ hai là ngũ cốc chiếm 19,95%, trong đó gạo là chủ yếu. Nhóm ngành sản phẩm đứng kế tiếp là rau quả và thịt heo, thịt gia cầm cũng chiếm tỷ trọng đáng kể trên 10%.
Bảng 3: Cơ cấu thực phẩm chế biến xuất khẩu của Thái Lan năm 2003
Mặt hàng |
Sản lượng
(tấn)
|
Giá trị
(triệu baht)
|
Tỷ trọng
(%)
|
Thủy sản |
1.334.850,94
|
160.247,54
|
34,05
|
Ngũ cốc |
8.798.312,62
|
93.870,54
|
19,95
|
Rau quả |
1.723.769,10
|
52.788,73
|
11,22
|
Thịt heo và thịt gà |
786.424,10
|
49.389,85
|
10,49
|
Đường và Bánh kẹo |
6.464.710,40
|
43.626,50
|
9,27
|
Thức ăn chăn nuôi |
4.175.607,83
|
25.998,05
|
5,52
|
Nước giải khát |
229.675,03
|
7.329,70
|
1,56
|
Dầu thực vật |
352.793,90
|
6.984,92
|
1,48
|
Đồ gia vị |
139.119,98
|
5.515,46
|
1,17
|
Sữa |
131.072,47
|
4.412,24
|
0,94
|
Trà, cà phê và ca cao |
33.535,64
|
2.914,21
|
0,62
|
Khác |
470.075,96
|
17.539,46
|
3,73
|
Tổng cộng |
24.639.947,97
|
470.617,20
|
100,00
|
Xét về thị trường xuất khẩu thực phẩm chế biến thì Nhật Bản là quốc gia nhập khẩu từ Thái Lan nhiều nhất, chiếm 20,75% tổng kim ngạch xuất khẩu của Thái Lan. Kế đến là Hoa Kỳ, 17,41% (năm 2003). Các nước ASEAN và Trung Quốc cũng là thị trường chủ yếu của Thái Lan (xem bảng 4).
Bảng 4: Cơ cấu thị trường xuất khẩu thực phẩm chế biến của Thái Lan năm 2003
STT |
Quốc Gia
|
Sản lượng
(tấn)
|
Giá trị
(Triệu baht)
|
Tỷ trọng
(%)
|
1 | Nhật |
2.051.709,09
|
97.629,97
|
20,75
|
2 | Hoa Kỳ |
1.127.986,84
|
81.923,60
|
17,41
|
3 | Indonesia |
2.197.757,09
|
20.097,54
|
4,27
|
4 | Malaysia |
1.424.292,04
|
19.998,21
|
4,25
|
5 | Trung Quốc |
2.527.818,39
|
17.389,97
|
3,70
|
6 | Hongkong |
735.823,85
|
14.507,96
|
3,08
|
7 | Anh |
256.689,53
|
13.060,61
|
2,78
|
8 | Hà Lan |
1.114.497,24
|
13.045,09
|
2,77
|
9 | Singapore |
622.061,51
|
12.651,79
|
2,69
|
10 | Úc |
238.840,42
|
11.832,17
|
2,51
|
11 | Đài Loan |
960.500,42
|
11.648,98
|
2,48
|
12 | Canada |
171.427,42
|
11.589,71
|
2,46
|
13 | Đức |
228.700,55
|
10.979,07
|
2,33
|
14 | Hàn Quốc |
1.112.896,42
|
10.295,53
|
2,19
|
15 | Philippines |
707.801,36
|
8.547,93
|
1,82
|
16 | Khác |
9.161.145,78
|
115.419,03
|
24,53
|
Tổng cộng |
24.639.947,95
|
470.617,16
|
100,00
|
Nguồn: Viện nghiên cứu thực phẩm Thái Lan, năm 2004
2. Kinh nghiệm khuyến khích phát triển ngành công nghiệp chế biến cá ngừ xuất khẩu
Vào năm 1980, tình hình tiêu thụ cá ngừ trên thế giới bão hòa, giá cá ngừ thế giới giảm sút và trong khi đó chi phí sản xuất tăng, điều này đã dẫn đến việc đóng cửa hàng loạt nhà máy chế biến ở Hoa Kỳ, Nhật và Châu Âu. Trong thập niên 1970, thị trường nhập khẩu cá ngừ đóng hộp trên thế giới tăng gần 4 lần từ 110.000 tấn lên đến 437.000 tấn. Đến thời điểm năm 1980, Thái Lan không xuất khẩu cá ngừ đóng hộp nhưng nhờ sự khủng hoảng thị trường cá ngừ đóng hộp nên các nhà chế biến đã di chuyển sang các nước đang phát triển với chi phí sản xuất thấp hơn, trong đó có Thái Lan. Nhờ xu hướng này, đến năm 1989, xuất khẩu cá ngừ đóng hộp của Thái Lan vượt qua 225.000 tấn, chiếm 51 % thị phần xuất khẩu thế giới, với giá trị xuất khẩu là 537 triệu USD. Ngày nay Thái Lan là trở thành quốc gia thứ hai trên thế giới chế biến cá ngừ đóng hộp và nhà xuất khẩu lớn nhất thế giới. Năm 2001, xuất khẩu cá ngừ đóng hộp của Thái Lan đạt giá trị trên 25,7 tỷ Baht (Xem bảng 6) và thị trường xuất khẩu chủ yếu là Hoa Kỳ chiếm 22,6%, Canada 8,9 % (Xem bảng 5).
Ngành công nghiệp chế biến cá ngừ đóng hộp của Thái Lan đáng quan tâm không những do tốc độ tăng trưởng nhanh mà còn bởi vì chủ yếu dựa trên nguồn nguyên liệu nhập. Nguồn nguyên liệu đánh bắt của Thái Lan hiếm khi nào vượt qua 30.000 tấn, trong khi nguồn nhập khẩu cá ngừ đông lạnh của Thái Lan đã vượt qua 250.000 tấn. Điều này đã chứng minh cho sự chuyển dịch từ ngành công nghiệp chế biến truyền thống với giá trị gia tăng thấp chủ yếu khai thác tài nguyên sang thực phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao sử dụng nguyên liệu nhập khẩu. Về môi trường đánh bắt cá thì cá ngừ tập trung chủ yếu phía Đông của Đại Tây Dương và phía Đông của Thái Bình Dương. Cuối thập niên 1970, tàu đánh cá của Hoa Kỳ bắt đầu khai thác nguồn cá ngừ ở phía Tây của Thái Bình Dương và tàu đáng bắt cá của Châu Âu dịch chuyển đến Ấn Độ Dương. Kết quả của sự chuyển dịch này đã làm tăng lượng cá ngừ trên thế giới và giá giảm. Thái Lan nằm gần nguồn cung cấp cá ngừ với chi phí thấp ở Thái Bình Dương và Đại Tây Dương. Chính vì vậy, các doanh nghiệp Thái Lan đã tận dụng cơ hội này để phát triển ngành công nghiệp chế biến cá ngừ đóng hộp xuất khẩu.
Để tiếp cận và xâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ và Châu Âu, các nhà sản xuất Thái Lan đã liên doanh với các doanh nghiệp Mỹ và EU. Sau đó nhà sản xuất lớn nhất Thái Lan đã mua lai công ty cá ngừ lớn thứ ba của Mỹ (Bumble Bee Seafoods Co.,) để tận dụng được hệ thống phân phối và nhãn hiệu đã được thiết lập. Các nhà chế biến của Thái chiếm thị phần lớn nhất đối với hầu hết thị trưởng nhập khẩu chủ yếu trên thế giới trừ Pháp do hạn chế sản phẩm của Thái Lan để dành thị trường cho các nhà xuất khẩu châu Phi, thuộc cộng đồng các quốc gia nói tiếng Pháp
Xuất khẩu cá ngừ đóng hộp chiếm 77% lượng hàng xuất khẩu hải sản đóng hộp vào năm 2001. Cá ngừ đóng hộp của Thái Lan chiếm 60% thị phần ở thị trường Hoa Kỳ mặc dù Hoa Kỳ đã áp dụng nhiều biện pháp thuế quan và phi thuế quan đối với cá ngừ đóng hộp của Thái. Ví dụ, thuế đánh theo định lượng (hạn ngạch) của Hoa Kỳ: thuế suất 6% theo giá hàng hóa khi nhập khẩu dưới hạn ngạch ở mức 20% sản lượng sản xuất của 3 năm trước đó của Mỹ và 12 % khi vượt quá hạn ngạch. Đối với thị trường EU thuế xuất nhập khẩu cá ngừ đóng hộp của Thái Lan là 24%. Trong khi đó, các nước châu Phi và Vùng biển Caribê có mức thuế 0 % do hiệp định ưu đãi thuế quan từ EU. Điều này chứng tỏ ngành công nghiệp chế biến cá ngừ của Thái Lan khá hiệu quả.
Đối với chất lượng sản phẩm, theo khảo sát của ngành công nghiệp chế biến thủy sản của Thái Lan, Kaewta và Sakun thấy rằng 94% của 120 công ty đạt ít nhất một chứng nhận tiêu chuẩn chất lượng hoặc ISO 9000 (30%), HACCP (69%) và cả hai (28%). Chi phí để một doanh nghiệp đạt giấy chứng nhận ISO 9000 là khoảng 10.000 USD. Khoảng 77% doanh nghiệp đạt giấy chứng nhận trong 3 năm đầu. Điều này chứng tỏ sự quan tâm của các doanh nghiệp đối với chất lượng sản phẩm.
Bảng 5: Sản lượng và tỷ trọng xuất khẩu cá ngừ đóng hộp sang các nước chủ yếu năm 1994-2002
Năm |
Tổng cộng (Triệu tấn)
|
Hoa Kỳ
(%)
|
Nhật Bản (%)
|
EU (%)
|
Canada (%)
|
Úc (%)
| |
Tất cả các nước
|
Anh
| ||||||
1994 |
284,1
|
26,1
|
10,4
|
21,8
|
11,4
|
5,9
|
3,3
|
1995 |
221,2
|
24,1
|
6,2
|
23,3
|
13,5
|
8,0
|
4,7
|
1996 |
188,4
|
22,8
|
5,7
|
18,0
|
11,7
|
8,8
|
5,9
|
1997 |
203,7
|
25,7
|
5,1
|
15,1
|
10,5
|
9,6
|
5,3
|
1998 |
227,3
|
29,5
|
3,6
|
13,2
|
9,2
|
7,2
|
4,5
|
1999 |
259,1
|
34,3
|
4,7
|
11,1
|
7,2
|
9,6
|
7,0
|
2000 |
244,7
|
25,6
|
5,8
|
11,3
|
5,3
|
9,7
|
7,6
|
2001 |
269,6
|
22,6
|
5,1
|
13,9
|
6,0
|
8,9
|
6,5
|
2002 |
268,3
|
22,3
|
6,0
|
12,7
|
5,3
|
8,9
|
7,8
|
Bảng 6: Giá trị và tỷ trọng của một số sản phẩm phẩm chủ yếu trong tổng giá trị xuất khẩu thực phẩm năm 2001 và 2002
Sản phẩm |
Năm 2001
|
Năm 2002
| ||
Giá trị
(Triệu Baht)
|
Tỷ trọng
(%)
|
Giá trị
(Triệu Baht)
|
Tỷ trọng
(%)
| |
Tôm đã chế biến | 42.251,3 |
9,5
| 33.272,6 |
7,8
|
Tôm đông lạnh | 53.216,9 |
12,0
| 33.258,4 |
7,8
|
Cá ngừ đóng hộp | 25.710,6 |
5,8
| 24.089,2 |
5,6
|
Thịt gà đông lạnh | 23.919,9 |
5,4
| 22.952,6 |
5,4
|
Thịt gà đã chế biến | 11.546,6 |
2,6
| 13.152,9 |
3,1
|
Dứa đóng hộp | 8.364,9 |
1,9
| 8.707,8 |
2,0
|
Cả 6 sản phẩm trên | 165.010,2 |
37,1
|
35.433,5
|
31,7
|
Tổng giá trị xuất khẩu thực phẩm |
444.706,0
|
100,0
|
426.662,3
|
100,0
|
3. Chính sách của chính phủ trong việc khuyến khích công nghiệp chế biến thực phẩm ở Thái Lan
Ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Thái Lan phát triển được nhờ vào một số chính sách sau:
Thứ nhất, chính sách phát triển nông nghiệp. Chính phủ Thái Lan thường xuyên quan tâm đầu tư để phát triển nông nghiệp. Một trong nội dung quan trọng nhất của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ năm 2000-2005 là kế hoạch tái cấu trúc hàng nông sản của Bộ Nông nghiệp Thái Lan. Thái Lan đã tiến hành quy hoạch lại tổng thể nông nghiệp nhằm mục đích nâng cao chất lượng và sản lượng của 12 mặt hàng nông sản trong đó có gạo, dứa, tôm sú, gà và cà phê. Chính phủ Thái Lan nhận thức được rằng càng có nhiều nguyên liệu cho chế biến thì ngành công nghiệp chế biến thực phẩm mới phát triển và càng thu được nhiều ngoại tệ cho đất nước. Mặc dù là một quốc gia thành công trên thế giới trong xuất khẩu thực phẩm chế biến nhưng Thái Lan không ngủ quên trên chiến thắng. Nhiều sáng kiến làm gia tăng giá trị cho nông sản được khuyến khích bởi chính phủ trong chương trình "One Tambon, One Product –OTOP" (mỗi làng, một sản phẩm) và chương trình quỹ làng (Village Fund Program).
Thứ hai, chính sách đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Chính phủ thường xuyên thực hiện chương trình quảng bá vệ sinh an toàn thực phẩm. Năm 2004 Thái Lan phát động chương trình "Năm an toàn thực phẩm và Thái Lan là bếp ăn của thế giới". Mục đích chương trình này chính phủ khuyến khích các nhà chế biến và nông dân có hành động kiểm soát chất lượng vệ sinh thực phẩm để an toàn cho tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Chính phủ Thái Lan đã có nhiều chính sách để kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm từ cuối thập niên 1970. Bên cạnh đó, chính phủ cũng hỗ trợ cho doanh nghiệp cải thiện chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm thường xuyên. Do đó, ngày nay thực phẩm chế biến của Thái Lan được người tiêu dùng ở các thị trường khó tính như Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU chấp nhận.
Thứ ba, mở cửa thị trường khi thích hợp. Ngành chế biến cá ngừ đóng hộp xuất khẩu thành công chủ yếu nhờ nhà đầu tư nước ngoài vào Thái Lan. Chính phủ đã xúc tiến đầu tư thu hút mạnh các nhà đầu tư nước ngoài vào liên doanh với các nhà sản xuất trong nước để phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm. Chính phủ đã mở cửa cho các quốc gia dù lớn hay nhỏ vào đầu tư kinh doanh. Về tiếp cận thị trường xuất khẩu, chính phủ là người đại diện thương lượng với chính phủ các nước để các doanh nghiệp đạt được lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu thực phẩm chế biến.
Thứ tư, chính phủ Thái Lan có chính sách trợ cấp ban đầu cho các nhà máy chế biến và đầu tư trực tiếp vào cơ sở hạ tầng như cảng cá kho lạnh, sàn đấu giá và đầu tư vào nghiên cứu và phát triển.
Thứ năm, xúc tiến công nghiệp và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Xúc tiến công nghiệp là trách nhiệm chính của Cục xúc tiến công nghiệp (Department of Industrial Promotion), thuộc Bộ Công nghiệp. Tuy nhiên, việc xúc tiến và phát triển công nghiệp chế biến thực phẩm do nhiều cơ quan nắm giữ như :
- Cục Xúc tiến nông nghiệp (Department of Agricultural Promotion) thuộc Bộ Nông nghiệp và hợp tác xã (Ministry of Agriculture and Cooperative - MAC);
- Cục Hợp tác xã (Department of Cooperatives) thuộc Bộ Nông nghiệp và Hợp tác xã giúp nông dân xây dựng hợp tác xã để thực hiện các hoạt động, trong đó có chế biến thực phẩm;
- Cục Thủy sản (Department of Fishery) thuộc Bộ Nông nghiệp và Hợp tác xã giúp đỡ nông dân từ nuôi trồng, đánh bắt đến chế biến thủy sản;
- Cơ quan Tiêu chuẩn sản phẩm công nghiệp (Office of Industrial Product Satndard) thuộc Bộ Công nghiệp xúc tiến tiêu chuẩn hoá và hệ thống chất lượng;
- Cơ quan phát triển công nghệ và khoa học quốc gia (National Science and Technology Development Agency) xúc tiến việc áp dụng khoa học và công nghệ cho chế biến;
- Bộ Đầu tư (Board of Invesment – BOI) xúc tiến đầu tư vào vùng nông thôn.
Từ năm 1997, Chính phủ nhận thấy rằng doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) phổ biến trong lĩnh vực chế biến và cũng là nguồn thu quan trọng của đất nước. Ngoài ra cùng với xu hướng tự do hóa thương mại và mở cửa thị trường dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt về chất lượng và giá cả, chính phủ Thái Lan đã thực hiện chương trình xúc tiến phát triển SME. Chính phủ Thái Lan đã soạn luật khuyến khích SME để làm nền tảng cho phát triển SME liên tục và có hệ thống. Từ năm 1999, Chính phủ thành lập một Ủy ban quốc gia về xúc tiến SME để phối hợp các cơ quan nhà nước khác nhau, đồng thời nghiên cứu và phân tích mô hình SME phù hợp để khuyến khích phát triển. Ngành công nghiệp chế biến thực phẩm là một trong những ngành được ưu tiên phát triển. Kế hoạch tái cấu trúc SME trong lĩnh vực chế biến thực phẩm được thực hiện. Trong kế hoạch này một dự án nâng cao hiệu quả hoạt động của SME được thực hiện bởi Cục xúc tiến công nghiệp. Mục tiêu của dự án này giúp cho các doanh nghiệp chế biến thực phẩm nâng cao khả năng điều hành doanh nghiệp thông qua cải thiện hiệu quả trong sản xuất, quản lý và chất lượng sản phẩm. Cục xúc tiến công nghiệp đã thuê các chuyên gia trong từng lĩnh vực làm tư vấn cho các doanh nghiệp trong vòng 6 tháng. Nhà tư vấn có thể giúp đỡ doanh nghiệp giải quyết vấn đề sản xuất, cải thiện năng suất, phát triển sản phẩm, marketing và quản lý tài chính. Việc khuyến khích phát triển SME dưới nhiều hình thức như cho vay lãi suất thấp, phát triển thị trường tiền tệ, phát triển nguồn nhân lực, chuyển giao khoa học và công nghệ, phát triển thị trường và sản phẩm và dịch vụ cung cấp thông tin.
Tóm lại, ngành công nghiệp chế biến thực phẩm của Thái Lan có một số đặc điểm sau:
- Có sự chuyển dịch theo thị hiếu của người tiêu dùng. Người tiêu dùng ngày nay cần nhiều loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao và an toàn vệ sinh thực phẩm.
- Quy mô nhà máy chế biến thực phẩm chủ yếu là nhỏ, có vốn đầu tư dưới 10 triệu baht (tương đương 220.000 USD).
- Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là thủy sản, ngũ cốc, rau quả và thịt nhờ lợi thế so sánh.
- Thị trường xuất khẩu chủ yếu là Nhật Bản, Hoa Kỳ, Trung Quốc và ASEAN.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét