Tiến sĩ Kinh tế ngành QTKD, Giảng viên cơ hữu Đại học Tài chính - Marketing và Giảng viên thỉnh giảng các trường Đại học phía Nam
Thứ Hai, 26 tháng 11, 2007
Chủ Nhật, 25 tháng 11, 2007
Quản lý chất lượng nông sản
Đẩy mạnh tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng
BÁO CÁO HỘI THẢO
"Đẩy mạnh tiêu thụ nông sản theo ký kết hợp đồng giữa doanh nghiệp với nông dân – mô hình Hợp tác xã, tổ kinh tế hợp tác"
(Trung tâm thông tin và thống kê của Bộ nông nghiệp và PTNT tổ chức ngày 31/7/2006)
ThS. Bảo Trung
Kể từ khi thực hiện chính sách đổi mới kinh tế, Việt Nam từ một nước có nền nông nghiệp tự cấp, tự túc đã vươn lên trở thành một nước xuất khẩu hàng hóa nông sản lớn trên thế giới. Trong thời gian qua, nền nông nghiệp Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể nhưng so sánh với yêu cầu thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế thì nền nông nghiệp nước ta vẫn còn nhiều yếu kém và thách thức gay gắt, đặc biệt là vấn đề tiêu thụ nông sản hàng hóa.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế song phương, khu vực và quốc tế, thị trường nông sản trong nước và quốc tế ngày càng gắn kết chặt chẽ với nhau, không thể tách rời nhau, trở thành một hệ thống vận hành theo cùng một "luật chơi". Xu hướng vận động và phát triển của thị trường nông sản ngày càng tự do hóa và trên cơ sở ứng dụng những thành tựu khoa học – công nghệ tiên tiến. Đây là một thách thức to lớn đối với Việt Nam, đặc biệt là đối với nông dân.
Trong thời gian qua, chúng ta đã thực hiện mô hình sản xuất theo hợp đồng và liên kết 4 nhà trong tiêu thụ nông sản. Sản xuất theo hợp đồng (Contract farming) và liên kết dọc giữa doanh nghiệp và nông dân (Vertical Coordination) được xem như là cầu nối giữa nông dân sản xuất nhỏ với thị trường. Hợp đồng sản xuất được ký kết giữa doanh nghiệp với nông dân với một mức giá xác định. Hai bên thỏa thuận một mức giá cố định trước khi tiến hành sản xuất. Doanh nghiệp sẽ cung cấp thông tin về công nghệ, dịch vụ khuyến nông và một số yếu tố đầu vào cho sản xuất. Liên kết dọc là sự liên kết toàn bộ quá trình từ cung cấp nguyên liệu đến sản xuất và cung cấp sản phẩm cho thị trường. Doanh nghiệp lựa chọn chiến lược liên kết dọc sẽ tìm cách tự sản xuất lấy các nguồn lực đầu vào hoặc lo liệu các đầu ra của mình. Tùy theo chiến lược kinh doanh, doanh nghiệp sẽ quyết định mức độ liên kết với nông dân. Sản xuất theo hợp đồng và liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân sẽ giảm được rủi ro về thị trường và sản xuất. Doanh nghiệp sẽ đảm bảo có đủ nguồn nguyên liệu cần thiết để sản xuất, chế biến tiêu thụ; nông dân có thể tiêu thụ được sản phẩm. Đây được xem là phương thức giao dịch nông sản tiên tiến. Tuy nhiên, chương trình sản xuất theo hợp đồng thường bị thất bại do nhiều lý do như hợp đồng không được thực hiện, quyền lực thương lượng không công bằng giữa nông dân và doanh nghiệp và hành vi độc quyền của doanh nghiệp. Ngoài ra, nếu doanh nghiệp ký kết tiêu thụ sản phẩm với nhiều nông dân sản xuất nhỏ thì chi phí cho việc ký kết hợp đồng này tương đối cao. Bên cạnh đó, nhận thức của nông dân còn yếu trong việc đáp ứng những yêu cầu về chất lượng hoặc an toàn vệ sinh thực phẩm. Điều này sẽ dẫn đến xu thế là các doanh nghiệp không muốn ký hợp đồng với nông dân sản xuất nhỏ, lúc này người nông dân sản xuất nhỏ bị loại khỏi chương trình sản xuất theo hợp đồng. Nguyên tắc căn bản ai cũng biết là "Sản xuất cái gì thị trường cần", nhưng để làm điều này, người nông dân không thể làm được. Trong khi đó, vai trò gắn sản xuất với thị trường của doanh nghiệp chưa phát huy tính tích cực. Quyết định 80/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 24/6/2002 đã đưa ra cơ sở pháp lý đầu tiên để hình thành mối liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp. Mặc dù một số doanh nghiệp không đợi đến Quyết định 80 ra đời nhưng họ đã thực hiện việc ký kết hợp đồng với nông dân từ lâu và rất thành công như Công ty mía đường Lam Sơn, Công ty mía đường Bourbon, Công ty Bông Việt Nam....Điều này chứng tỏ Quyết định 80 là chủ trương đúng. Sau khi quyết định này ra đời, hầu hết các địa phương trong cả nước đều lập ban chỉ đạo thực hiện quyết định 80 với nhiều hình thức đa dạng. Điều này đã "dấy lên một phong trào" mà chúng ta thường gọi là "Sản xuất theo hợp đồng và liên kết 4 nhà". Sau hai năm thực hiện, nhiều doanh nghiệp đã thất bại không mua được hàng hóa, hoặc không thu hồi được vốn đầu tư ứng trước cho nông dân, tình trạng vi phạm hợp đồng xảy ra khắp nơi. Nông dân cho đổ lỗi cho doanh nghiệp và ngược lại. Từ đó các doanh nghiệp này dần dần lờ đi việc ký kết hợp đồng tiêu thụ với nông dân và họ tỏ ra nghi ngờ Quyết định 80.
Kinh nghiệm các nước đã cho thấy rằng việc sản xuất theo hợp đồng phụ thuộc vào quy mô của nông trại. Ví dụ như tại Hoa Kỳ, gần 2/3 nông trại lớn sử dụng phương thức sản xuất theo hợp đồng trong khi đó nông trại nhỏ rất ít sử dụng phương thức này (Xem bảng).)
Bảng Sản xuất theo hợp đồng phân theo quy mô tính theo doanh thu của Hoa Kỳ năm 2001 và 2003
Quy mô (tính theo doanh thu) (USD) | Tỷ lệ trang trại sản xuất theo hợp đồng trên tổng số trang trạng (%) | Tỷ lệ giá trị sản xuất theo hợp đồng trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp (%) | ||
Năm 2001 | Năm 2003 | Năm 2001 | Năm 2003 | |
Dưới 250.000 | 7,7 | 6,2 | 19,1 | 19,9 |
250.000-4999.999 | 47,9 | 43,5 | 31,2 | 31,3 |
500.000-999.999 | 60,9 | 59,1 | 45,7 | 42,6 |
1 triệu hay hơn | 61,5 | 64,2 | 46,6 | 53,4 |
Nguồn: Theo sự tính toán của ERS của Bộ Nông nghiệp Mỹ, đăng trong tài liệu Agricultural Contracting Update: Contracts in 2003/EIB-9, www.ers.usda.gov
Điều này cho chúng ta thấy rằng để đẩy mạnh tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng đòi hỏi chúng ta phải có những nông trại lớn. Tuy nhiên trong điều kiện nước ta hiện nay để hình thành được các nông trại hàng hóa có quy mô là rất khó. Do đó, việc hình thành các tổ chức đại diện cho nông dân như HTX và tổ hợp tác sẽ khắc phục được hạn chế về diện tích sản xuất nhỏ, manh mún, phân tán, với tập quán sản xuất thường dựa vào kinh nghiệm. HTX hay tổ hợp tác chính là cầu nối giữa nông dân và doanh nghiệp. Bài học thực tế đã chứng minh rằng các doanh nghiệp chỉ muốn ký hợp đồng với HTX chứ không muốn ký hợp đồng trực tiếp với nông dân vì đơn giản là chi phí giao dịch giảm xuống đáng kể khi ký với HTX. Ví dụ năm 2003 Công ty Dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp An Giang – Antesco ký hợp đồng mua bắp non vớn hơn 11.000 hộ nông dân, nhưng nhờ thành lập HTX và tổ hợp tác mà hiện nay công ty chỉ còn ký 15 hợp đồng. Tuy nhiên, làm thế nào phát triển HTX và tổ hợp tác và nâng cao hiệu quả hoạt động của chúng để HTX đủ sức đảm đương vai trò của mình. Trong báo cáo này tôi đề xuất một số gợi ý một số chính sách như sau:
- Thứ nhất, việc thành lập HTX và tổ hợp tác phải hết sức cẩn trọng tránh chạy theo thành tích. HTX và tổ hợp tác phải thực sự là đại diện của nông dân và hình thành trên nguyên tắc tự nguyện. Cơ cấu xã hội ở nông thôn Việt Nam đã từng được hình thành trong quá trình hợp tác hóa đã đơn giản hóa đến mức tối đa, chỉ còn lại một bên là những nông dân với các hộ gia đình xã viên, bên kia là Ban Chủ nhiệm HTX, Đảng ủy, Ủy ban và các đoàn thể, bao gồm cả Mặt trận Tổ quốc đều đã được "nhà nước hóa". Các hình thức tự quản vốn có hầu như bị xóa sạch. Không một lực lượng xã hội nào được tồn tại có tính tự trị, tự quản tương đối độc lập ngoài những đoàn thể tổ chức đã "nhà nước hóa" hay là những "cánh tay nối dài" của tổ chức Nhà nước. Chính điều này đã ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển HTX và tổ hợp tác sau này. Để HTX và tổ hợp tác phát triển thì điều quan trọng là chúng ta cần phải thay đổi được "não trạng" của cán bộ chính quyền cơ sở và người dân ở nông thôn.
- Thứ hai, phương thức vận động thành lập HTX và tổ hợp tác phải phù hợp với môi trường văn hóa xã hội của từng vùng và từng địa phương khác nhau. Sự thành công hay thất bại của việc phát triển HTX và tổ hợp tác trong thời gian phần lớn phụ thuộc vào phương thức tuyên truyền vận động của chính quyền địa phương. Để phát triển HTX và tổ hợp tác theo hướng bền vững, Cục HTX và PTNT cần phối hợp với các Viện, Trường và các Chi Cục ở địa phương nghiên cứu xác định rõ những nhân tố văn hóa – xã hội đã dẫn đến sự hợp tác của nông dân. Từ đó đề xuất những phương thức vận động và hỗ trợ phù hợp với từng địa phương. Ở Việt Nam, có những nét văn hóa khác biệt giữa các vùng, miền nên khó có mô hình chung để áp đặt lên trên cả nước. Chính vì vậy, việc vận động và hỗ trợ cho phát triển HTX và tổ hợp tác phải phù hợp văn hóa địa phương.
Tóm lại, mô hình HTX, tổ hợp tác làm cầu nối tiêu thụ hàng nông sản bằng hợp đồng ký kết giữa nông dân và doanh nghiệp phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam. HTX và tổ hợp tác đã khắc phục hạn chế của việc sản xuất nhỏ, manh mún, phân tán. Tuy nhiên, để HTX, tổ hợp tác phát triển bền vững thì chúng ta cần chú ý đến các yếu tố văn hóa để xây dựng phương thức vận động phù hợp và HTX và tổ hợp tác thực sự là tổ chức tự nguyện của nông dân.
Thứ Tư, 14 tháng 11, 2007
- Nó phục vụ những mục tiêu xã hội và chính trị nhiều hơn là kinh doanh.
- Làm theo kế hoạch từ trên giao xuống
- Những người quản lý được bổ nhiệm theo sự tin tưởng nhiều hơn là tài năng.
- Cơ cấu tổ chức phát triển theo sự thuận tiện.
- Mô phỏng cách thức của cơ quan hành chính với quyền hành không được ủy quyền cho ai mà tập trung vào tay giám đốc.
ổng giá trị của khách hàng (Total customer value) |
|
Tổng chi phí của khách hàng (Total cost value) |
|
Giá trị dành cho khách hàng (Customer delivered value) | "Lợi nhuận" cho khách hàng |
Thứ Bảy, 10 tháng 11, 2007
Bế giảng lớp Đào tạo giám đốc doanh nghiệp
Thứ Tư, 7 tháng 11, 2007
Phương pháp xác định hiệu quả kinh tế
PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH HIỆU QUẢ KINH TẾ (HQKT)
CỦA CÁC MÔ HÌNH SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
TS. Phạm Xuân Giang
1. Sự lúng túng của học viên trong việc xác định HQKT của các mô hình sản xuất nông nghiệp ( và cả mô hình VAC)
Gần đây có khá nhiều học viên thực hiện đề tài tốt nghiệp với nội dung xác định HQKT của các mô hình sản xuất nông nghiệp (và cả mô hình VAC). Mục đích chính của loại đề tài này là làm sao xác định được một vài mô hình có hiệu quả cao cho từng vùng sinh thái cụ thể để từ đó khuyến cáo người dân áp dụng. Điều tự nhiên khi thực hiện đề tài là học viên phải biết có bao nhiêu mô hình trong vùng nghiên cứu. Sau đó, họ phải thu thập được số liệu để tính các chỉ tiêu phản ánh HQKT của từng mô hình. Các công việc này đã được học viên thực hiện khá tốt. Tuy vậy, học viên lại rất lúng túng trong việc đánh giá HQKT của các mô hình. Bởi, để đánh giá HQKT của các mô hình phải sử dụng một hệ thống chỉ tiêu và phải so sánh lần lượt từng chỉ tiêu của các mô hình với nhau. Điều đó chắc chắn dẫn đến việc là mô hình này có chỉ tiêu tốt hơn lại có chỉ tiêu xấu hơn mô hình kia. Và như vậy, học viên sẽ không có căn cứ để cho rằng mô hình nào là tốt hơn. Chẳng hạn, có thí dụ về cách tính HQKT các mô hình sản xuất nông nghiệp của một học viên:
Mô hình | Công lao động/ha | Chi phí vật chất/ha (tr,đồng) | Lãi/ha (tr.đồng) | Tỷsuất LN/Vốn (%) |
1. 3 vụ lúa | 410 | 15,037 | 29.963 | 60,8 |
2. 2 lúa + 1 cá | 380 | 16.700 | 30.660 | 68,1 |
3. 2 lúa + 1 vụ dưa | 450 | 25.033 | 28.967 | 73,5 |
4. 2 lúa + 2 rau | 500 | 29.500 | 38.600 | 72,9 |
Mô hình tối ưu | 380 (2) | 15.037 (1) | 38.600 (4) | 73,5 (3) |
Với kết quả ở bảng trên, học viên này rất khó để cho rằng: mô hình nào từ 4 mô hình trên là có hiệu quả nhất. Nếu căn cứ vào chỉ tiêu thứ nhất thì mô hình 2 là có hiệu quả nhất; căn cứ vào chỉ tiêu thứ hai thì mô hình 1; căn cứ vào chỉ tiêu thứ ba thì mô hình 4; còn nếu căn cứ vào chỉ tiêu thứ tư thì mô hình 3 lại là mô hình có hiệu quả nhất. Chỉ tiêu Tỷ suất lợi nhuận/vốn là một chỉ tiêu cơ bản để đánh giá HQKT, nhưng nó vẫn chưa phải là một chỉ tiêu toàn diện. Chính vì vậy, phần sau của bài viết sẽ trình bày hai cách đánh giá HQKT của các mô hình sản xuất nông nghiệp.
2. Đánh giá HQKT của các mô hình sản xuất nông nghiệp bằng cách tính chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp
HQKT của các tiến bộ kỹ thuật, các phương án sản xuất hoặc các mô hình kinh tế (gọi tắt là các mô hình) … được biểu hiện bằng nhiều chỉ tiêu. Các chỉ tiêu này chịu tác động của những nhân tố khác nhau và với những cường lực không giống nhau. Thậm chí cùng một loại nhân tố nhưng thời kỳ này tác động mạnh, thời kỳ khác lại có thể yếu hơn. Mặt khác, có loại chỉ tiêu trị số càng lớn càng tốt (được gọi là chỉ tiêu thuận), lại có chỉ tiêu trị số càng nhỏ càng tốt (được gọi là chỉ tiêu nghịch). Trong đánh giá HQKT không thể sử dụng một chỉ tiêu mà phải sử dụng một hệ thống chỉ tiêu. Các chỉ tiêu này lại không trực tiếp cọng lại được với nhau và mỗi chỉ tiêu biểu hiện HQKT ở một khía cạnh riêng biệt, do đó cũng không thể sử dụng một chỉ tiêu làm đại diện để so sánh. Bởi vậy, người ta đã đưa ra cách tính chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp. Chỉ tiêu này có tác dụng tổng hợp được các chỉ tiêu bộ phận để biểu hiện thành một chỉ tiêu chung nhất phản ánh HQKT của từng mô hình. Cách tính được tiến hành qua bốn bước:
- Bước 1:Tính các chỉ tiêu bộ phận phản ánh HQKT của từng mô hình
- Bước 2: Chọn ra các chỉ tiêu HQKT tốt nhất từ những mô hình nói trên và mô hình lý tưởng bao gồm những chỉ tiêu này được coi là mô hình tối ưu.
- Bước 3: Tính chỉ tiêu hiệu quả thành phần bằng cách lấy trị số của các chỉ tiêu
thuận chia cho trị số của chỉ tiêu tương ứng trong mô hình tối ưu. Các chỉ tiêu nghịch thì làm ngược lại, tức là lấy trị số của chỉ tiêu nghịch trong mô hình tối ưu chia lần lượt cho trị số của chỉ tiêu tương ứng trong các mô hình cụ thể. Kết quả tính ra đều có kết quả nhỏ hơn hoặc bằng 1.
- Bước 4: Tính chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp bằng cách cộng trị số của các chỉ tiêu hiệu quả thành phần. Mô hình nào có chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp lớn nhất chứng tỏ HQKT của mô hình đó là cao nhất và ngược lại.
Chúng ta có thể ứng dụng cách tính chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp vào thí dụ trên và kết quả được thể hiện trong bảng sau:
| Công lao động | Chi phí Vật chất | Lãi | Tỷ suất LN/vốn | Chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp |
1. 3 vụ lúa | 0,93 | 1,00 | 0,78 | 0,83 | 3.54 |
2. 2 lúa + 1 cá | 1,00 | 0,90 | 0,79 | 0,93 | 3,62 |
3. 2 lúa + 1 vụ dưa | 0,84 | 0,60 | 0,75 | 1,00 | 3,19 |
4. 2 lúa + 2 rau | 0,76 | 0,51 | 1,00. | 0,99 | 3,26 |
Mô hình tối ưu | 1,00 | 1,00 | 1,00 | 1,00 | 4,00 |
Các số liệu của cột cuối cùng trong bảng trên cho thấy: Mô hình 2 có hiệu quả nhất, sau đó là mô hình 1, rồi đến mô hình 4 và cuối cùng là mô hình 3. Như vậy phương pháp này đã quy đổi được các chỉ tiêu hiệu quả bộ phận thành một chỉ tiêu chung, qua đó tạo sự dễ dàng cho việc đánh giá hiệu quả của các mô hình sản xuất nông nghiệp.
3. Đánh giá HQKTcủa các mô hình sản xuất nông nghiệp trong điều kiện các nguồn lực (đầu vào) bị hạn chế
Theo chúng tôi, sử dụng chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp để đánh giá HQKT của các mô hình đã được trình bày trên đây chỉ có ý nghĩa trong điều kiện có đủ các nguồn lực, như: vốn, lao động , vật tư… Tuy vậy, trong sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất nông nghiệp trong các hộ nói riêng, một số yếu tố đầu vào thường bị giới hạn. Mức độ giới hạn phụ thuộc trực tiếp vào nguồn lực sẵn có trong hộ và sự gúp đỡ của các tổ chức kinh tế - xã hội, như: ngân hàng, HTX, chính quyền… Có thể nói yếu tố nguồn lực thiếu thốn nhất đối sản xuất của các hộ nông dân trước hết là vốn bằng tiền, sau đó là lao động. . .Thực ra, lao động nông nghiệp ở nước ta trước đây không thiếu, thậm chí là dư thừa. Nhưng thời gian gần đây, do quá trình đô thị hoá nhanh, nên một bộ phận lao động nông nghiệp đã chuyển hẳn sang làm công nghiệp và dịch vụ. Kết quả là lao động trong khu vực nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ngoại thành thiếu lao động trầm trọng. Sự thiếu thốn nguồn lực dẫn đến việc là cho dù một mô hình nào đó có lãi cao, doanh thu lớn… thì người dân cũng không thể áp dụng được. Bởi vì những mô hình có lãi cao, doanh thu lớn … cũng thường là những mô hình đòi hỏi đầu tư nguồn lưc lớn. Trong điều kiện đó người dân không thể căn cứ vào chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp hoặc chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận/vốn . . . để chọn mô hình áp dụng. Ngược lại, họ phải chọn mô hình nào mà đòi hỏi ít nguồn lực nhất (mà họ đang thiếu) để thực hiện. Nói khác đi là họ phải căn cứ vào một trong các chỉ tiêu nghịch để chọn mô hình sản xuất cho mình. Chẳng hạn theo thí dụ trên, nếu thiếu lao động trực tiếp thì nên chọn mô hình 2 (là mô hình cần ít công lao động nhất); nếu thiếu vốn thì chọn mô hình 1 (là mô hình có chi phí thấp nhất). . .
Tóm lại: Đánh giá HQKT của các mô hình sản xuất nông nghiệp trong điều kiện còn nghèo của nước ta phải xuất phát từ yếu tố nguồn lực. Nghĩa là nếu có đủ nguồn lực thì đánh giá bằng chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp, còn nếu nguồn lực bị hạn chế thì chọn chỉ tiêu nào mà sử dụng nguồn lực hạn chế nhất để đánh giá.
HẾT
-
TS. Bảo Trung 1. Khái niệm giá trị cảm nhận của khách hàng Từ những năm cuối thế kỷ 20 khái niệm “giá trị cảm nhận” đã được các...
-
LÝ THUYẾT CHI PHÍ GIAO DỊCH: ÁP DỤNG VÀO NGHIÊN CỨU SẢN XUẤT THEO HỢP ĐỒNG VÀ SỰ LIÊN KẾT DỌC GIỮA DOANH NGHIỆP VÀ NÔNG DÂN TS. Bảo Trung Lý...
-
LUẬN CỨ KHOA HỌC SẢN XUẤT NÔNG SẢN THEO HỢP ĐỒNG TS. Bảo Trung 1. GIỚI THIỆU Sản xuất và tiêu thụ nông sản theo hợp đồng ngày càng đóng vai ...